Người tù kiệt xuất
Tôi đă nhiều lần
định viết về những người tù kiệt
xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: những
anh em Biệt Kích Dù, những người "từ trên trời
rơi xuống", nhưng tôi cứ lần lựa măi. Lười biếng th́ chỉ có một phần.
Lư do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội
phần cảm phục ấy đang ở trong một t́nh
trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo
sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục
đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng
quư vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh.
Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn c̣n có chút âm hao
để mà theo dơi.
Những anh em Biệt
Kích Dù th́ đúng là "thượng diệt, hạ tuyệt"
- không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào
được đăng kư, không có chính phủ nào, quân
đội nào công nhận có những con người ấy
ở dưới tay. Không được liên
lạc với ai, coi như không c̣n hiện diện trên trái
đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc
Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất
Cộng Ḥa, những anh em Biệt Kích Dù đă tham dự một
cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những
người t́nh nguyện tham gia cuộc chiến này đă
tự coi như ḿnh đă chết; nhảy xuống, t́m
được địa bàn hoạt động, trà trộn
được, ẩn dấu được là sống, là
thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt,
bị giết th́ "Anh tự lo liệu cho cái thân anh,
không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp
hay bảo trợ cho anh được". Những
người tù "đứt dây rơi xuống" này
không được hưởng chút quyền lợi nào từ
quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc
tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc
Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, v́
các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi
được đăng kư hợp pháp ở một chính
phủ nào.
Dưới
thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, (thời tổng thống
Ngô Đ́nh Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu
tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan
t́nh báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay
không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng
cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan t́nh báo Ngũ Giác
Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết.
Nghe nói những người được tuyển chọn
vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật,
ngoài những người khả năng đặc biệt
về nghiệp vụ như t́nh báo, truyền tin, phá hoại,
trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu
trong rừng sâu, chiến đấu với đối
phương, với bệnh tật, với thiên nhiên,
được trang bị thật kỹ từ A đến
Z về mưu sinh thoát hiểm, họ c̣n phải là những
người tuyệt đối tin tưởng vào quốc
gia, vào lănh tụ. "Sống không rời nhiệm vụ,
chết không bỏ lập trường" đó là vũ
khí chung của anh em Biệt Kích.....
Như mọi người đă biết, cuộc chính biến
1 tháng 11 năm 1963 đă làm sụp đổ nền Đệ
Nhất Cộng Ḥa, anh em tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng
hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em
đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất
nhiên cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích
Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết
đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê
Quang Tung-Lê Quang Triệu bị hạ sát, đă bị
rơi vào t́nh trạng rắn mất đầu. Sự tan
vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một
sự kiện "vỡ kế hoạch" vô t́nh hay cố
ư nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần
lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết
và bị bắt. Không ai biết rơ hay biết mà không ai dám
nói ra, đă có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng
họ lập nên được những ǵ? Bao
nhiêu người sống, bao nhiêu người chết?
Chiến tranh tối mật nên những người thực
hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối.
Đó là quy luật của cuộc chơi.
Một cuộc chơi quyết liệt và tàn
nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất
cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất
chưa chắc đă là viên thống soái chỉ huy ba quân
tướng sĩ, mà người có công nhất có thể
là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống
trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết
lạnh lùng dưới biển cả. Thời
gian cũng như ḷng người, đều vô t́nh như
nhau. Nào ai c̣n nhớ trong biết bao nhiêu người
chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập
niên 60 năm ấy, ai c̣n, ai mất?
o0o
Năm 1980 khi lũ tù cải
tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng
sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là
một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này
chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc.
Đây là một trại tù "ẩn giấu". Lũ
tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại
được đánh giá là "ác ôn nợ máu" gồm
thành phần An ninh, Pḥng nh́, Trung ương t́nh báo, Chiến
tranh chính trị, B́nh định nông thôn ... thành phần mà
"Cách mạng" cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở
đây th́ chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở
phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở
đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng
CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ
đầu thập niên 60 đă nhảy dù ra Bắc.
Lũ chúng tôi mới tới được
đưa ra tắm suối. Chợt gặp
hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mỗi người
một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa
xuống và hỏi: "Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh
Phú xuống?" Chúng tôi gật đầu đồng ư.
Hai người liền lật đật đứng
nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi
quân cách và đồng thanh nói: "Chúng em là Biệt Kích Dù
đây".
Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết
nói năng ǵ th́ một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: "Gần
hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong t́nh cảnh
này, đau đớn quá".
Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần
biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài
năm, sau khi đă trải qua những năm tháng tù đày
khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên
giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại
"Mục xương" Cao Bằng hay trại Sơn La
"âm u núi khuất trong sương mù". Nếu quân
"bành trướng Trung Hoa" không tấn công 6 tỉnh
miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, th́ có
lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn c̣n quẩn quanh nơi rừng
núi phía Bắc. Ở đâu anh em cũng bị "cất
giấu" chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với
loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi
"Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em
được gần gũi với "nhân dân" nhiều
nhất. Cũng v́ thế nên mới được
gặp các anh hôm nay".
Trong số
các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy
(1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít
nhất là 17 năm. "Nhất nhật tại tù,
thiên thu tại ngoại" chúng tôi đi cải tạo
đă được 5 năm, đă thấy cuộc đời
tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù
này th́ thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải
tạo tụi tôi vẫn c̣n liên lạc được với
gia đ́nh, vẫn nhận thư, nhận
quà, có anh c̣n được người nhà từ trong Nam ra
thăm nuôi nữa. Mới đây một số anh em trẻ,
cấp bậc nhỏ đă lác đác được về.
Như vậy là ở cuối đường hầm chúng
tôi chúng tôi đă có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích
Dù th́ từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống
cách biệt hẳn với loài người, coi như những
người "bị bỏ quên" trên hành tinh trái đất.
Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là
ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17
năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng c̣n
thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích
chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có
một số anh em được về - nhưng ...
đó là "về với đất".
KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ
Phân trại K2 của chúng tôi nằm
cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số
đường rừng. Ở cách K2
chừng một giờ đi bộ c̣n có K3 - nơi giam tù
h́nh sự dữ nhất: cướp của, giết
người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến
K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống
Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến
địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đă rợn
người. Nhưng mà đường đến Hồi
Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong th́
chưa đi đến đâu...
Một người bạn
có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong,
gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người
vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng
xấu số biết chị vừa trải qua những khốn
khổ nào. Chỉ biết chị đi từ huyện
Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây mà 2 ngày mới
đến, phải ngủ giữa rừng. Cái ǵ đă xảy
ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 kư quà
cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường
băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời
mưa đổ xuống th́ là tai họa. Suối đang
nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao
lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng
không giữ được nước, nên trời đổ
mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển.
Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở
đó làm ǵ có phương tiện sang sông nước
đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống
cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng
phải nghỉ qua đêm ở một cái cḥi vắng ven rừng.
Đêm đến, những "con người thú"
đă khai thác đến tận cùng thân xác và của cải
người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng
sâu. Sáng ra chị đă muốn cắn lưỡi tự tử,
nhưng v́ không muốn bỏ rơi mấy đứa con
nhỏ c̣n ở lại Sài G̣n, nên chị mới lê tấm
thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải
tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ
chồng cứ ôm nhau mà khóc.
Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng
câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng
biết. Nó trở thành một nỗi âu lo âm ỉ trong
đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó
được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp
con. Nhưng nếu vợ con ḿnh, thân nhân của ḿnh phải
hứng chịu những tai vạ đau thương
nhường ấy để được thăm nuôi
ḿnh th́ khốn nạn cho vợ con ḿnh quá. Nhưng lo th́ lo vậy,
biết tính làm sao. Thân ḿnh c̣n chưa chắc là của ḿnh
th́ c̣n lo cho ai được nữa. Trước sự kiện
mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa
đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ
điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy
biện pháp nào cụ thể.
Anh em Biệt Kích Dù th́
ngược lại phản ứng tức thời. Đa số
anh em Biệt Kích Dù ở đây là "diện rộng"
tỏa ra đi lao động trên rừng.
Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng
trong thực tế, trại "nể" anh em. Trại nể
anh em Biệt Kích Dù v́ tác phong của họ, v́ sự trên
dưới một ḷng của họ, nhưng lư do chính yếu
nhất là v́ Biệt Kích Dù chính là cái "túi tiền" của
ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu
c̣n chấm mút được ǵ. Nhưng v́ ở chốn rừng
sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm
mưa làm gió. Tục ngữ có câu "Nhất phá Sơn lâm,
nh́ đâm Hà bá". Chỉ cần có nhân công biết nghề
rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này th́
không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở
đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quư
thiếu ǵ, lại c̣n có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn
có tiếng trong nền y dược Đông Phương.
Bây giờ không c̣n bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt
Kích Dù vẫn được lên rừng t́m quế cho trại
trưởng Thùy "mồi", nhưng bên ngoài gọi là
đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có
3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại
xây dựng th́ ít mà lấy gỗ súc đem ra Thanh Hóa bán chui
th́ nhiều. Tôi được biết trại trưởng
Thùy "mồi", phân trại trưởng K2 Vũ B. ai
cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mỗi
người một số danh mộc (như lim, như sến,
cán bộ vừa vừa th́ có gỗ thao lao, bằng
lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở
quê nhà.
Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù
"thượng thừa" của trại. Tiếng nói
của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn
anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là
dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy,
đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được
gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói
đến người chỉ huy của họ với tất
cả ḷng kính mến. Rất ít người được
gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, v́ anh không lao động,
không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của
vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong
cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân
hành răm rắp.
Phản ứng trước sự mất an ninh con
đường từ huyện Như Xuân đến trại,
anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một "dịch
vụ chuyên chở" từ huyện lỵ đến trại
Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào "hạch toán kinh tế".
Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do
trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ
trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em
cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi
phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng
có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể
dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu
dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được
chấp thuận và sau đó gia đ́nh cải tạo viên tới
thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm
nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt
chẹt về giá cả gồng gánh - quà cáp và thân nhân tù cải
tạo cũng được bảo vệ an toàn.
Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở
người, anh em Biệt Kích Dù "diện rộng"
đi "rỉ tai" khắp các vùng thôn bản xa gần
trong huyện Như Xuân "khẩu lệnh" của Biệt
Kích Dù . Khẩu lệnh như sau: "Thân nhân cải tạo
viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của
Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động
đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến
thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là
về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không
để yên. Luật của Biệt Kích Dù là "mất một
đền mười". Động đến thân nhân
cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng
là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có ǵ để
mất, đă nói là làm".
Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại
Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt
đối...
NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ
Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới
huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những
giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an
toàn thuận tiện, mà c̣n là một đường dây giúp
chúng tôi liên lạc với "thế giới bên ngoài"? Muốn
"bắn" một cái thư khẩn cấp về Sài
G̣n, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo
chí... cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều
nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt
Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của
đội mộc, đội rau, đội mía, đội
nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu
như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có
"mánh" để giao thiệp với họ. Bao giờ
anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu
tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu
thuốc có cán, hay là tờ báo. Cán bộ nào tới đây cũng
nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít th́ nhiều. Vài bó nứa
sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít ṿng mây buộc
lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền
th́ như đă nói, anh em Biệt Kích Dù "đấm
mơm" hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc
th́ cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh
em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề,
cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động
của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy
gỗ, lấy nứa, lấy mây - ở nhà th́ có các đội
mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội
chăn nuôi... anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm
niên 20 năm có khác. Biết rơ hết đường đi
nước bước của cán bộ coi tù.
Tôi, Nguyễn Hữu
Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa...
tôi chưa thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa
thua cuộc chiến này.
Trên nguyên tắc trại Thanh
Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại
trưởng, trung tá Công An Thùy "mồi", nhưng trên
thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù
đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh
lệnh của vị chỉ huy của họ, đại
úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người
huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu
nhưng chưa bao giờ được gặp, v́ anh không
đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều
tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc
đến "ông thầy" của họ. Truyện về
đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ
hoang đường, truyền thuyết. Đây là người
sau 20 năm bị bắt vẫn c̣n tuyên bố: "Tôi Nguyễn
Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa... tôi chưa thua các anh. Tôi mới thua một trận,
chưa thua cuộc chiến này". - Bắt Nguyễn Hữu
Luyện đi lao động, anh nói: "Các anh có thể
giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ
quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không cho phép tôi làm những
công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép
tôi làm như vậy".
Anh
đă bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều
trại rùng rợn, dă man nổi tiếng nhưng Nguyễn
Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu
Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất
phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao
động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm
nay đă trở thành một nề nếp đặc biệt,
các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải
chấp nhận. Người ta chưa lường
được hết quyền năng của Nguyễn Hữu
Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế
nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất
cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở
trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho "tổn"
nhiều năm không có thuốc nên anh "về nước
Chúa". Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều
là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn
Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ
đều nói "anh em lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, Ngô
Đ́nh Nhu chúng tôi chưa có chết. C̣n ẩn lánh đâu
đó... Lănh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở về...".
Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội
Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi
yên không đi làm. Họ nói "được lệnh của
đại úy Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù
ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa
mới mất". Cán bộ trực trại đến hỏi
Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc
điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện
trả lời: "Các anh tôn trọng đồng chí của
các anh th́ chúng tôi cũng yêu thương đồng đội
của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng
tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh
biệt người nằm xuống". Sau điều
đ́nh măi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về
cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy
máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù
khác đều nghỉ hết.
Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về
đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa
tự hào vừa buồn bă. Tự hào v́ đồng đội
đă có những người kiệt xuất như vậy,
buồn bă v́ nh́n lại bản thân, nh́n anh em xung quanh ḿnh thấy
khá nhiều người bất xứng. Những năm
tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt
Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường
dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, c̣n
là một nơi nương tựa tinh thần.
o0o
Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong trại
K2 đă chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp
dư của tụi tôi thiếu rất nhiều "nhân
tài" nhưng vẫn phải tŕnh diễn cho anh em vui Tết.
Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập
luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ.
Không ngờ đội văn nghệ "què" như vậy,
Tết lại phải đi "lưu diễn" trên K1
và K3. Mùng 2 chúng tôi lên K1 - đường dài 4 cây số chúng
tôi đi gần hai tiếng đồng hồ, khoảng gần
9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt
Kích Dù nói rằng: "Chẳng mấy khi được
đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1 chúng tôi xin hạ một
con heo để đón mừng anh em văn nghệ". Tôi
được biết sau này sự hậu đăi ấy là
do ư kiến của đại úy Nguyễn Hữu Luyện
đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ
tù chúng tôi được tiếp đón long trọng và săn
sóc chu đáo như vậy. Theo chương tŕnh, đội
văn nghệ tŕnh diễn buổi trưa, diễn xong
ăn uống rồi về.
Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu ở hội
trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến
bên tôi khẽ nói: "Anh Luyện em mời anh vô trong lán uống
trà". Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của
tôi là được gặp người sĩ quan Biệt
Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật
và con người "huyền thoại" giống nhau,
khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo người anh em Biệt
Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2, K3 lán tù thường
tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ
mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa
bước chân vô chưa kịp định thần, tôi
đă thấy một con người cao lớn, mắt sáng
trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động
tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi quân cách, miệng
nói: "Mes respects, mon colonel!".
Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra sao?
Đi tù 5, 6 năm nay, ḿnh là giai cấp đang bị triệt
tiêu, là tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang
xă hội, tại sao lại có người chào ḿnh trân trọng
như vậy. "Mes respects mon colonel" đây là lễ
nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nh́n thấy
kiểu chào này đâu. Ḿnh bây giờ, là tù khổ sai biệt
xứ, đâu c̣n ǵ mà "kính chào trung tá".
Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người
đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ
nghi quân cách mà hỏi: "Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu
Luyện?" Người ấy, vẫn đứng nghiêm,
chỉ đưa tay xuống rồi nói tiếp: "Vâng
thưa anh, tôi là Luyện", "Anh Luyện ơi, anh làm
vậy tôi khó xử quá, thời buổi này, anh em ḿnh gặp
nhau là quư". Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời
bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói
"Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm
như vậy. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh
của tôi".
Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ Đức.
Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật,
nhưng 20 năm qua, nếu anh c̣n ở lại miền Nam,
với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết
anh đă lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt
như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đă có người lên
tướng. Nhưng đối với người như
Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu,
nhân cách mới là chính yếu. Ở trong quân đội miền
Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của
đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?
Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm răi
nói nhỏ với tôi: "Có một "thằng em" vừa
nhận được một cái tin rất lạ, rất
mới. May là lại được gặp anh hôm nay ở
đây. Được biết anh vốn là một nhà báo.
Xin anh cho ư kiến về tin vừa mới nhận này".
Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một anh em
nào đó đứng gần bên "Gọi Th. lên
đây". Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi
hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ
chuyên lo về truyền tin. Th. là một chuyên viên về
địa hạt này. Hai chục năm bị bắt
nhưng Th. vẫn xử dụng được tay nghề.
Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một
người "phấn đấu tiến bộ" là
đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và
Đài (radio). Trong hàng ngũ cán bộ th́ công an vốn là một
nơi an toàn mà "kiếm được". Chỉ có
hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến
trường chết banh thây mất xác hoặc phải
đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió
nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an tương đối
có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ.
Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại
xưa, khó xài, dễ hỏng. V́ vậy nên chuyên viên truyền
tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên gặp
chúng tôi. Anh nói rằng: "Em sửa đài cho cán bộ
quanh năm không lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ
em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc nào em cũng phải
lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên ḿnh
một cái đài "chạy được". Em giữ
lại để đeo "ê-cút-tưa" vào nghe tin tức
một ḿnh. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai
em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ
được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với
các nhà lănh đạo Hà Nội về vấn đề cựu
chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị... Lần
đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy
dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được
xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài
chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em
nghe đài nhắc đến số phận tụi em. Chúng
em là những người bị bỏ quên, coi như đă
chết rồi. Không số quân, không tên tuổi, không nơi
nào nhận. Chúng em là những người "đứt
dây rơi xuống" luôn luôn sống ở một xó rừng
góc núi "trên không chằng, dưới không rễ",
không c̣n liên hệ ǵ với xă hội loài người. Bây giờ
em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến
số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước
mắt chảy ṛng ṛng... không biết là mơ hay thật
đây". Tôi vội cầm lấy tay người thượng
sĩ Biệt Kích Dù mà nói: "Đúng đấy bạn
ơi, thời gian này ông tướng Vessey, đặc sứ
(special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang viếng
thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến
sự kiện này. Tin mà bạn vừa nghe được rất
đáng tin cậy". Nguyễn Hữu Luyện vội
chen vào "Làm sao ḿnh tin được đài Hà Nội".
Tôi nói tiếp "Đây là một sự kiện có tính cách
quốc tế, truyền thông thế giới đều
theo dơi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên
đài Hà Nội dù muốn dấu cũng khó ḷng. Vả
chăng thông tin của khối Xă Hội Chủ Nghĩa
xưa nay chỉ loan những tin nào có lợi cho họ. Tin
bất lợi, họ quên đi ngay. Việc tướng
Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đă có một
thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội không mặt này
th́ mặt kia. Ḿnh chưa biết được sự thỏa
thuận ấy đến đâu, chi tiết ra sao, nhưng
việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ
Vessey đến Hà Nội, nh́n chung là một chỉ dấu
thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt
là đối với các anh, những người mà trên 20
năm nay họ cố ư hay vô t́nh quên lăng". Nguyễn Hữu
Luyện trầm ngâm "Như bản thân tôi và anh em chúng
tôi ở đây đă từng rút kinh nghiệm không nên tin
tưởng nhiều quá vào người Mỹ" -
"Đồng ư trên nguyên tắc, nhưng trong số những
người Mỹ c̣n nhớ đến đồng minh cũ,
c̣n lưu ư đến số phận khốn khổ của
chúng ta th́ ông Reagan này là số 1. Nếu năm ngoái cái tên Mỹ
khùng nào nó bắn ông ấy chết th́ chúng ta c̣n vất vả
hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ của ông
Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc
đến Biệt Kích Dù th́ tôi nghĩ sớm muộn
trường hợp các anh sẽ được giải
quyết. Các bạn có thể được về...".
Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn
Hữu Luyện. Anh như nói một ḿnh "Được
về, được về, mà về đâu....."
o0o
Lời
b́nh Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu năm
khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng
nghiệm. Đến giữa năm 1982, có hai lượt
thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới
100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông tướng
Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan
đă giở lại chồng hồ sơ mật đầu
thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những
Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20 năm ở
nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội
nhập với loài người. Cùng thời gian đó
chương tŕnh "nước sông công tù" đem cải
tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi âm u
(như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ
Lào này) trở thành nông trường, lâm trường, rồi
đem gia đ́nh cải tạo viên lên chỉ định
cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc,
cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn
anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay
đổi đi trại khác. Đến cuối năm
1982, trại Thanh Phong K2 chỉ c̣n lại trên 50 tù chính trị.
C̣n lại toàn là tù "đui, què, mẻ sứt" già yếu,
bịnh tật... hay là thuộc loại "không tiện
cho về Nam". Tôi thuộc số trên 50 người c̣n lại
này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại tù
chính trị K2 giải thể. Những người tù c̣n lại
đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt
Kích Dù c̣n lại lên xe đi đến một trại khác ở
Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ.
VỀ TRẠI TÂN KỲ
Trại Tân Kỳ này là một trại "trung chuyển".
Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc c̣n lại hồi 76-77
trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy
và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại
Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù
chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù h́nh sự thứ
dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi
là "Tây Đức" và "Đông Đức" v́
khu Tây tương đối dễ thở hơn khu
Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại
người: ông Vơ Tr. lănh tụ VNQDĐ ở miền Trung,
Quảng Ngăi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những
ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ
trưởng "chính phủ trong bóng tối" và đặc
biệt tôi được ở cùng lán với người
thủ lănh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, v́ chung
đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu
thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu
Luyện.
Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh)
chỉ c̣n độ trên 50 người. V́ có tay nghề
riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về
các đội chuyên môn như đội mộc, đội
rèn, đội chăn nuôi... Riêng thủ lănh Biệt Kích Dù
Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một
đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng
có chút "chuyên môn" nên ở đây, trại mới, tôi
cũng được xử dụng đúng theo "tay nghề":
chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại,
đội rau nào cũng cần đến loại phân bón
này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ
(Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ
ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của
tôi thường được tuyển lựa trong mấy
ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị. Đồng
nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám
đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là
thẩm phán Ṭa án Quân sự, là giáo sư Trường Vơ Bị
Quốc Gia v..v... Ở đây th́ đại loại cũng
như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người
lo về nhà cầu th́ 1 là biện lư, 1 là đại đức,
1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh
Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng "trước
sau như một" này là chấp hành đúng tinh thần
"Mao-ít": "Chữ nghĩa không bằng cục
phân". Tôi lại nhớ đến thái độ của
đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh
nhất định không đi lao động. Ở đây
cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua,
và đă trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện
được biên chế về đội rau nhưng anh
nhất quyết không đi làm.
Toán "nhà cầu" tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là
công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đă dọn
sạch, chuyển cho đội rau. Nhà cầu đă quét
tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm
v́ dù đă đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm,
nhưng tự thấy thân thể ḿnh hôi hám quá. Mùa nực
được đi tắm là một cái sướng,
nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng
đói cồn cào lại là một cực h́nh. Nước
suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt,
thân thể gầy c̣m, co ro run rẩy, ngần ngại đứng
bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao động,
người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét
đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tắm.
Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện.
Anh nói: "cứ ào một cái là xong". Cái lạnh ở
miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện
xem ra không có nghĩa lư ǵ. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc
đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm
cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở
miền cực bắc nước ta, cái lạnh c̣n ác liệt
hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm,
đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô
cùng giản dị: "Cứ ào một cái là xong".
Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu
Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một
vấn đề hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng
đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc
mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với
Nguyễn Hữu Luyện h́nh như anh coi rất nhẹ vấn
đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế
nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất
nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao
giờ về vấn đề đói. H́nh như anh ở
tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh
đă quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi,
hoặc nhận quà, có ḷng quư mến anh, biếu anh cục
đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một
bữa cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận
của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa nhận
quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng
nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới
nói: "Chỗ anh em sao anh kỹ quá". Nguyễn Hữu
Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ:
"Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đ̣i hỏi
thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó
quen dạ đi th́ lại khổ đấy anh ạ".
Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận. Nhận
một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn
Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa,
về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối
với anh thật là cần thiết. Như đă nói ở
trên, chúng tôi dân "nhà cầu" làm việc xong, ḿnh mẩy
hôi hám nên cực chẳng đă mùa rét mà phải đi tắm.
Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà
trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.
Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là
1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn.
Người đă cao anh lại c̣n đi đôi guốc mộc
do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù
anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên
giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc,
gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt
Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bỗng nhiên nhớ đến
2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu
Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở
đây. Tù đi tắm th́ cứ thế cởi truồng
ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa.
Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt th́ cũng
chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh
răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với
người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật
đẹp. Màu men óng ả chói ngời...tương phản
rơ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu
xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện:
"Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?".
Nguyễn Hữu Luyện trả lời: "Tôi cũng
không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên
trại trưởng trại "mục xương" ở
Cao Bằng tặng cho tôi đấy. Cao Bằng giáp với
biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ
Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng
Châu có nhăn hiệu chỉ rơ. Dạo cuối thập niên 70,
tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm.
Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi
th́ nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán
rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn
ăn. Mùa lạnh nó c̣n đổ nước xuống hầm
nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ
Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu
luôn Phật Bà Quan Âm nữa. Nó hành tôi măi năm này sang
năm khác mà cuối cùng tôi vẫn c̣n sống. Nhưng mà chết
th́ thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không
chịu thua chúng nó". - "Như vậy th́ tên trại
trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại
tặng anh cái chậu này?"- "Tôi cũng không biết
nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối
cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa
hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: "Tôi sắp đổi
đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm
phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này".
Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu
lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng
đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng
không hiểu tại sao hắn lại làm như thế".
TẤM H̀NH NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM
Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là một
người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày
tôi thường thấy anh ngồi quay mặt vào tường,
kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh
ngồi thiền mà anh đọc sách. Một cuốn sách
dày để trước mặt. Anh người Công giáo,
tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một
hôm tôi biết là không phải. Một buổi chiều anh mời
anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi
về văn phạm, về cách đọc một vài chữ
khó. Th́ ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt
là một cuốn tự điển Anh Việt. Bạn tôi
hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển.
Tôi mới hỏi: "Ông học Anh văn kiểu ấy
th́ bao giờ cho xong?" Luyện trả lời:
"Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng
để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi".
Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất khó mà tự
học. C̣n văn phạm c̣n cú pháp, c̣n cách đọc, cách
nhấn.....làm sao cho người ta hiểu. Ông bạn giáo
sư Anh văn và tôi cùng dân "nhà cầu" nên ở gần
nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối
Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù ŕ bàn chuyện
tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng
nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng
Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở
Sài G̣n có phát hành tuần san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi
là New Time. V́ nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu
t́m học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận
được từ gia đ́nh gởi tới khá nhiều.
Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán
bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em
đọc New Time với quan niệm "Nó nói ǵ, kệ cha
nó - miễn là ḿnh có tài liệu học Anh văn". Nguyễn
Hữu Luyện là người t́m đọc New Time kỹ
nhất.
o0o
Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đă được
gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về
từ trại cũ Thanh Phong có lẽ cũng đă
được trên dưới nửa năm. Đă gần
tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận
được quà nhà gởi "đông" hơn dạo
trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ
Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp thành tới mau hơn Thanh
Phong nhiều.Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng buổi
chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng
có một vài anh em Biệt Kích Dù đến nói điều
ǵ đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là "báo
cáo" hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng.
Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy
ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt
Kích Dù không bao giờ nhận được thư,
được quà...Anh em là những người bị bỏ
quên trong xă hội loài người. Nhưng gần đến
Tết năm 1983, có trên 10 gói quà gửi đến cho một
số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được về
từ nửa năm trước đă họp nhau gửi
quà cho những người c̣n ở lại. Trong một buổi
tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện
kể: Một số lớn anh em được về
nhưng không c̣n liên lạc được với gia
đ́nh nữa. 20 năm qua gia đ́nh xiêu tán không c̣n nhận
được âm hao. Có anh th́ vợ đă lấy chồng
khác, đă an phận với một cuộc đời mới
từ mười mấy năm qua. Ván đă đóng thuyền,
người trở về không muốn gây phiền muộn
cho cố nhân làm ǵ nữa. Những anh em t́m lại
được thân nhân, gia đ́nh phải nói là rất hiếm.
V́ vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù sau khi
đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ
họp cùng nhau, tùy nghề nghiệp, tùy hoàn cảnh mà quây
quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới,
trong một xă hội mới đầy khó khăn, thù hận.
Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả,
gian nan, nhưng những món quà của anh em ở ngoài gửi
vào cho anh em ở lại đều là những đồ
gia dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, ḿ, trứng
muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp v.v... những thứ cần thiết cho một
ngày Tết cổ truyền. Anh em được về
như vậy đă không quên những người ở lại.
Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt
Kích Dù "sẽ họp lại ăn chung".Một số
anh em nhận được quà, được thư,
nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện th́ không. Anh là
người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện
hỏi. Không biết gia đ́nh của anh bây giờ ra sao?
Có thể bản tính anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp
Biệt Kích, được huấn luyện về bảo
mật quá kỹ nên anh không muốn nói về ḿnh; hay là những
năm tù kiên giam trong hầm đá đă làm cho anh quen đi
với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi
chợt nhớ đến chi tiết khi tôi gặp anh lần
đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc
sứ của tổng thống Mỹ Reagan, tướng
Vessey can thiệp th́ các anh em Biệt Kích Dù có thể
được về, Nguyễn Hữu Luyện đă âm thầm
khẽ nói "được về, được về.....mà
về đâu?"
Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ "về
đâu?" của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết
anh có c̣n gia đ́nh, có c̣n người thân chờ đợi?
Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc,
không tin tức..... đâu phải người
đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu? Cái dấu
hỏi sau 2 chữ "về đâu" của Nguyễn
Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lư. Gần Tết năm
nay, khi một số khá đông anh em Biệt Kích Dù đă có
tin tức...tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho
t́nh trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn
đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa,
không nên vội vàng đề cập tới.
Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến
với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn
thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như
mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà
buổi trưa vừa tới có thêm một số gói cho anh
em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà
gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một
số h́nh ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn
Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi
chiều. Anh ngồi quay lại, đưa h́nh cho chúng tôi
coi. H́nh ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể
đang đứng lạy trứơc bàn thờ khói
hương nghi ngút. Trên bàn thờ có tấm h́nh phóng lớn
của thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang
cúi đầu trước người đă khuất. Tấm
h́nh trên bàn thờ nh́n kỹ đâu phải ai xa lạ chính
là h́nh Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước.
Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: "Khi tôi
đi con gái đầu ḷng tôi mới có 4 tuổi, năm
ngoái con tôi nó đă lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt
không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng
rằng tôi đă chết".
Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt
nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong
sương của người tù kiệt xuất Nguyễn
Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở
trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm
thầm nhỏ lệ trong đêm.
BẠN TÙ FULRO
Ở trại "Tây Đức" có 4 lán th́ 3 lán là tù
chính trị ở cùng với tù Fulro, lán c̣n lại là tù h́nh sự.
Trại Tân Kỳ này, thời kỳ "phồn thịnh"
chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được
đưa về Nam khá đông nên cả hai khu "Đông
Đức - Tây Đức" chỉ c̣n lại chừng
500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro
thuộc đội "củ quả", chuyên trồng
bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía... Những anh em
Fulro theo chức danh ghi trong "lư lịch trích ngang"
đều là những nhân vật lớn như thiếu
tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá,
thiếu tá v.v... nhưng thật ra chỉ
là những đồng bào thiểu số không biết chữ,
nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe... luôn
luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi. Sự ngây
thơ, chân thật hiện rơ trong từng dáng điệu,
từng lời nói. Nghe, nh́n họ khó có thể tưởng
tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải
phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front
unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đă phát khởi
từ lâu, giữa những năm 60 và đă gây phiền nhiễu
không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền
Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân
tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm
mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt
trận vơ trang chống đối cộng sản rất mạnh
mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều
Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào
thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở
Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro.
Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng,
tá Fulro bị bắt giữ.
Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt kích ở với
anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy
anh em Fulro lộ vẻ "căm thù" ǵ hết. Nhiều
khi anh em c̣n tiếp tế củ khoai, đẫn mía... Anh em
đội rau th́ đưa lại su hào, rau cải. Không nói
ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong t́nh cảnh
"cùng một lứa bên trời lận đận".
Nhưng một buổi tối có một sự kiện
không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một
anh c̣n trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có
đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt
động trên vùng Cao nguyên "Hoàng Triều Cương Thổ".
Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở
nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường.
Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng
Anh rất "chạy". Anh nói tiếng Anh dễ
hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một
loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy
nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự
cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dă ở
bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn
th́ anh đánh đổi lấy rau, lấy đường
với anh em tù chính trị "tiền trao cháo múc".
Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó,
nghe không hiểu được nhưng phảng phất một
nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe
một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỳ.
Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt
được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa
để cải thiện bữa ăn. Ăn không hết
anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một
cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ
sành nầy anh để dưới sàn, gần chỗ
đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh th́ chịu
được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần
chịu không nổi mới nói với anh trực buồng.
Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải
nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói
với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm
của anh đi chỗ khác. Anh này nghe xong gạt phăng
ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi
nằm, hết sức bất b́nh. Cái hũ mắm càng ngày
bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người
đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy
ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi.
Đi làm buổi chiều về khi lán đă đóng cửa,
anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm
của anh không c̣n ở chỗ cũ. Anh nổi giận
đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một
người nào đó mới chỉ anh trực buồng.
Anh này chạy bay đến chỗ anh trực buồng già
cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên:
"Sao mày lấy của tao, I'm gonna to get you, to kill
you..." (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro
có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy,
định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng
giận, đẩy anh Fulro già ngă chúi, kéo áo anh trực buồng
rách toạc, cái kính cận văng xuống đất.
Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến
ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú.
Bỗng có một người cao lênh khênh bước tới,
đó là tay thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.
Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nă thủ
tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn
đă bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát
ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng:
"Đừng làm ồn". Tay Fulro hét lên: "It's none of your business" (không
phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn
nói tiếp: "Chuyện không đáng ǵ. Sáng mai chúng ta gặp
nhau giải quyết". Không biết lời nói của tay
thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mănh lực ǵ mà sau
đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng
nguôi đi, nh́n xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện
dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói
"Thôi đi nghỉ đi....".
Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người
(anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp
nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để
lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa
anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ
này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại,
nó tốt hơn lên, kiểu "đánh nhau vỡ đầu
rồi mới nhận anh em". Tay Fulro Biệt kích mũ
xanh bây giờ mới nhận ra "ông thầy", ở
nơi thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.
Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn
Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng
Anh, nói bất cứ chuyện ǵ để cho Nguyễn Hữu
Luyện luyện "accent". Có khi anh ta c̣n đem tới
củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu
lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận
bao giờ.
Sau khi những tấm h́nh của vợ con anh nhờ một
anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại
Tân Kỳ, tôi một bữa mới hỏi Nguyễn Hữu
Luyện "Tại sao anh không có thư, có quà riêng của
gia đ́nh?" Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện
mới nói: "Thực t́nh tôi không nghĩ là vợ con tôi
c̣n đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt
Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo
đi t́m hộ....Rất may là đă t́m ra. Vợ con tôi
đă rời Sài G̣n, xuống Cần Thơ sinh sống. Tôi
cũng đă dự pḥng trường hợp này. Gần 20
năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ
rằng tôi đă chết. Thôi cứ để như thế
cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền
ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con
tôi c̣n nghĩ đến tôi, c̣n chờ đợi tôi th́
đó là ơn riêng của Chúa đă ban cho. Nhưng tôi đă
nói trước là vợ con tôi nếu c̣n đó, khi nhận
được tin tôi th́ không bao giờ được viết
thư, được gửi quà. Nhận thư nhận
quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà ḿnh không
thương vợ, thương con ḿnh cho được.
Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, ḿnh là
thằng trọc đầu, trên không chằng dưới
không rễ, họ không nắm ḿnh vào đâu được.
Bây giờ ḿnh thương vợ ḿnh, thương con ḿnh, họ
đọc thư, họ biết như vậy, th́ ḿnh không
sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành
được ḿnh, bây giờ họ hành vợ con ḿnh để
bắt ḿnh quy phục, th́ làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi
không muốn nhận thư, nhận quà riêng là v́ thế..."
ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI
Có lẽ trại Tân Kỳ này trươc đây đă xây dựng
trên một vạt rừng. Trong sân trại c̣n một số
cây cổ thụ c̣n sót lại. Ở cuối sân "tập
kết" bên "Tây Đức", trước cửa
mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn
Du đă nói "người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ". Ở đây không những người buồn,
(một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác
xơ như một lũ vượn người thời
mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây ǵ mà khẳng
khiu, trơ trụi, không c̣n một chút màu xanh, chỉ có những
rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như
một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng
giơ tay chịu tội giữa trời. Xưa nay cây
thường là một biểu tượng thuần hậu
của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở,
cho chim ca và gió hát. Ở đây th́ ngược lại; cây
đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng
cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh
lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi
ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái
rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống
như một đàn trăn gió đang ŕnh mồi, những
hốc tối ṃ làm liên tưởng đến hang ổ của
lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng
tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đă có
hơn một người tù treo cổ chết. Người
tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng b́nh dân gọi
là "có hương". Con ma treo cổ thường dẫn
dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống
giống như ḿnh để oan hồn uổng tử kia
được đầu thai kiếp khác.
Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù
đă cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn
địa vẫn c̣n buốt giá. Như thường lệ
buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống,
đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt
một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối
sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nh́n lên,
một bóng người đang đứng trên chạc ba của
cây đa trụi lá, vươn cổ ra ḥ hét: "Tộ
cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con tao, hại
vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu...". Cán bộ
trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa,
giơ tay quát nạt "Anh kia, anh chửi ai?"- "Tao
chửi bây, chưởi tổ cha tụi bây". Một
công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo "cu
lat" loạch xoạch. "Anh kia, xuống ngay". Một
phát súng nổ vang lên; mọi người giật ḿnh
nhưng nh́n lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn
dọa... Người đứng trên cây, nh́n kỹ, cổ
đă quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào
một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như
thét: "Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt
cổ". Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo
vệ hạ carbine xuống. Người đứng trên
cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục ḥ
hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi
ra trước sân tập kết, vội vă thổi c̣i ra lệnh
xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa
tê điếng trước phản ứng bất ngờ của
một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi
trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các
tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận
từ kia. Anh em x́ xào "Ai đấy nhỉ?"-
"Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa
phương quân người Huế hay Quảng B́nh, Quảng
Trị"- "Đúng hắn rồi c̣n ai nữa, nghe
đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần".
Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập
kết trở lại vắng người, im ắng. Tiếng
chưởi rủa của thiếu tá Địa
Phương quân Th. vẫn c̣n róng rả: "Tộ cha bây,
bây giết con tao". Mấy tên làm việc trong trại
như đội "nhà cầu" tụi tôi vẫn tiếp
tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng
cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn.
Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức
Như L. cho hay "Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải
tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải
đi "nghĩa vụ" sang Campuchia. Anh vừa nhận
tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được
xác về. Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi
nhận được tin con và từ đó bịnh luôn.
Đi làm lương không đủ nuôi con, làm ǵ có quà cáp cho
chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ
anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học
ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại
bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ
trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm
anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con... Anh ta
vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại
phản ứng bất thường như vậy..."
Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, ḥ
hét. Nhưng tiếng chửi bới, ḥ hét thưa dần v́
không c̣n "đối tượng". Vào khoảng 9 giờ
sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ
đi tới gốc cây đa nói: "Anh Th., có chuyện ǵ
xuống đây tôi giải quyết".- "Bắn cho tôi
một phát đi, tôi không xuống". Thấy không xong, trại
trưởng liền đi vào trong lán tù. H́nh như y đi
t́m một người nào đó. Tôi được nghe nói
là Trung tá công an đi t́m đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn
Hữu Luyện. Trời đă gần đứng bóng. Anh bạn
tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ
quàng sẵn vào một ṿng dây thừng oan nghiệt. Chợt
có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng
dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện.
Hai người đứng nói chuyện ǵ với nhau không
rơ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th.
tháo bỏ cái ṿng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ
từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ
người bạn tù bước xuống đất và d́u
anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lănh Biệt
Kích Dù đă nói những ǵ, đă làm thế nào để cho
người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc
đời.
o0o
Những ngày tiếp
theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dơi hậu
quả đến với người tù cựu Thiếu tá
Địa Phương Quân. Hậu quả đầu tiên
là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội
kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu "Tây Đức".
Cho một số đội sang khu "Đông Đức".
Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ
những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật
chất của tù gây dựng được trong những
tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới.
Cái thân quen vừa tạo lập đă mất đi. Chủ
trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn
ở trong một t́nh trạng tạm thời, nghi ngờ,
bất trắc.
Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu
nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện
nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy được
của miền Nam)
chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ.
Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen?
Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn cũ.
Đây là chuyến xe chở một số các linh mục
tuyên úy Công giáo từ trại B́nh Đà ngoài Bắc đổi
trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm
ngoái tháng 4, 1982 đă từ biệt tụi tôi ở trại
Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội
trưởng đội rau kiêm đội trưởng
văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc
T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói
"Xă hội tù xoay chuyển ṿng tṛn. Ḿnh lại gặp
nhau ở đây, mừng quá".
Nhưng cái mừng của người bạn cũ không
được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3,
1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ
trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người
tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội
vă. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy
vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những
người bạn tù đă cùng tôi trải qua một thời
kỳ gian khổ. Tôi nh́n thấy trong lán tù ở lại có
những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn
biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người
tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không
được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến
nay thấm thoát đă 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải
tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu
năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại t́nh cờ
đọc đến những ḍng này, nếu các anh
được biết tin ǵ về người bạn tù
khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa
Phương Quân xin các anh vui ḷng cho tôi được biết.
Đặc biệt về người tù kiệt xuất
Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng
cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa
với anh mà tôi không giữ được tṛn. Một buổi
sau khi anh cho tôi xem tấm h́nh con gái anh bữa lấy chồng,
đang cúi lạy trước chân dung người cha đă
khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng "Sau này nếu
có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện
này". Anh nắm tay tôi mà nói: "Thôi đừng anh ạ,
ḿnh xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một
người lính t́nh nguyện gia nhập cuộc chiến tranh
bí mật. Quy luật của nó là thế th́ ḿnh đành phải
chịu, thưa anh".
Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm
nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo
tôi đă muốn lắm, muốn được kể chuyện
người tù kiệt xuất là anh và đồng đội
của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất.
Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại măi. Bây giờ
tôi được biết rơ là anh đă tới Hoa Kỳ
được một thời gian và anh đang đứng
ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng
đội của anh làm thủ tục xuất ngoại.
Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng
đă nằm im trong cát bụi lăng quên bây giờ đang
được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay
tôi mới dám viết ít ḍng này với tư cách của một
người bạn tù cùng trại nói ra những điều
tai nghe mắt thấy.....
Phan Lạc Phúc